VI/Prabhupada 0744 - Ngay khi chúng ta nhìn thấy Krishna, chúng ta sẽ nhận được cuộc sống vĩnh cửu: Difference between revisions

(Created page with "<!-- BEGIN CATEGORY LIST --> Category:1080 Vietnamese Pages with Videos Category:Prabhupada 0744 - in all Languages Category:VI-Quotes - 1976 Category:VI-Quotes...")
 
m (Text replacement - "(<!-- (BEGIN|END) NAVIGATION (.*?) -->\s*){2,}" to "<!-- $2 NAVIGATION $3 -->")
 
Line 7: Line 7:
[[Category:VI-Quotes - in India, Vrndavana]]
[[Category:VI-Quotes - in India, Vrndavana]]
<!-- END CATEGORY LIST -->
<!-- END CATEGORY LIST -->
<!-- BEGIN NAVIGATION BAR -- TO CHANGE TO YOUR OWN LANGUAGE BELOW SEE THE PARAMETERS OR VIDEO -->
<!-- BEGIN NAVIGATION BAR -- DO NOT EDIT OR REMOVE -->
{{1080 videos navigation - All Languages|French|FR/Prabhupada 0743 - Si vous fabriquez votre programme de jouissance, alors vous serez battu|0743|FR/Prabhupada 0745 - Peu importe si vous croyez ou pas, les mots de Krishna ne peuvent pas être faux|0745}}
{{1080 videos navigation - All Languages|Vietnamese|VI/Prabhupada 0722 - Đừng lười biếng. Luôn luôn tiếp tục làm việc|0722|VI/Prabhupada 0745 - Dù chúng ta tin hay không tin, lời nói của Krishna không thể nào bị sai lầm|0745}}
<!-- END NAVIGATION BAR -->
<!-- END NAVIGATION BAR -->
<!-- BEGIN ORIGINAL VANIQUOTES PAGE LINK-->
<!-- BEGIN ORIGINAL VANIQUOTES PAGE LINK-->
Line 18: Line 18:


<!-- BEGIN VIDEO LINK -->
<!-- BEGIN VIDEO LINK -->
{{youtube_right|cwmkh8k2sVg|Ngay khi chúng ta nhìn thấy Krishna, chúng ta sẽ nhận được cuộc sống vĩnh cửu<br />- Prabhupāda 0744}}
{{youtube_right|_6ku1uqMu2c|Ngay khi chúng ta nhìn thấy Krishna, chúng ta sẽ nhận được cuộc sống vĩnh cửu<br />- Prabhupāda 0744}}
<!-- END VIDEO LINK -->
<!-- END VIDEO LINK -->


Line 30: Line 30:


<!-- BEGIN TRANSLATED TEXT (from DotSub) -->
<!-- BEGIN TRANSLATED TEXT (from DotSub) -->
Prahlāda Mahārāja bị trừng phạt bởi cha của nó nhiêu lần, nhưng nó không thể nào quên được Kṛṣṇa. Tại vị nó có lòng yêu thương mạnh mẽ với Kṛṣṇa. Bởi vậy Ngài đã rất là vui lòng, prīto 'ham. Prīto 'ham. Prahlāda bhadraṁ. ([[Vanisource:SB 7.9.52|SB 7.9.52]]) Mām aprīṇata āyuṣman. ([[Vanisource:SB 7.9.53|SB 7.9.53]]) Āyuṣman nghĩa là cầu Chúa phù hộ cho mình: "giờ đây con sống lâu hơn" hoặc "sống vĩnh cửu". Āyuṣ nghĩa là thời gian của cuộc sống. Những người nào đến gặp Kṛṣṇa... Mām upetya kaunteya duḥkhālayam aśāśvatam, nāpnuvanti. Duḥkhālayam. ([[Vanisource:BG 8.15|BG 8.15]]) Miễn là chúng ta có cơ thể vật chất này và sống ở trong thế giới vật chất, đó là duḥkhālayam aśāśvatam. Đó là một thế giới vật chất nhất thời ngập tràn khổ đau. Ngay cả nếu chúng ta chấp nhận tình trạng đau khổ... Tất cả mọi người gắng sức sống. Một ông lão cũng không thích chết. Ông có lẽ đi bác sĩ và uống thuốc cho tiếp tục cuộc sống của ông, nhưng ông không thể nào sống vĩnh cửu được. Aśāśvatam. Những người có lẽ giàu có, uống thuốc nhiều và tiêm nhiều mũi cho kéo dài cuộc sống nhưng họ không thể nào sống mãi mãi được. Không thể nào được. Nhưng ngay khi chúng ta nhìn thấy Kṛṣṇa, chúng ta sẽ nhận được cuộc sống vĩnh cửu. Thực sự chúng ta có cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta là vĩnh cửu. Na hanyate hanyamāne śarīre. ([[Vanisource:BG 2.20|BG 2.20]]) Chúng ta không chết khi thể xác bị giết. Chúng ta chỉ nhận cơ thể khác. Nhưng đây là bệnh tật. Lúc quý vị nhận ra Kṛṣṇa, hiểu được Kṛṣṇa... Mặc dù quý vị không nhận ra Kṛṣṇa được, chỉ hiểu Kṛṣṇa, sau đó quý vị trở thành vĩnh cửu.
Prahlāda Mahārāja bị trừng phạt bởi cha của nó nhiêu lần, nhưng nó không thể nào quên được Kṛṣṇa. Tại vị nó có lòng yêu thương mạnh mẽ với Kṛṣṇa. Bởi vậy Ngài đã rất là vui lòng, prīto 'ham. ''Prīto 'ham. Prahlāda bhadraṁ.'' ([[Vanisource:SB 7.9.52|SB 7.9.52]]) ''Mām aprīṇata āyuṣman''. ([[Vanisource:SB 7.9.53|SB 7.9.53]]) Āyuṣman nghĩa là cầu Chúa phù hộ cho mình: "giờ đây con sống lâu hơn" hoặc "sống vĩnh cửu". Āyuṣ nghĩa là thời gian của cuộc sống. Những người nào đến gặp Kṛṣṇa... ''Mām upetya kaunteya duḥkhālayam aśāśvatam, nāpnuvanti. Duḥkhālayam.'' ([[Vanisource:BG 8.15 (1972)|BG 8.15]]) Miễn là chúng ta có cơ thể vật chất này và sống ở trong thế giới vật chất, đó là duḥkhālayam aśāśvatam. Đó là một thế giới vật chất nhất thời ngập tràn khổ đau. Ngay cả nếu chúng ta chấp nhận tình trạng đau khổ... Tất cả mọi người gắng sức sống. Một ông lão cũng không thích chết. Ông có lẽ đi bác sĩ và uống thuốc cho tiếp tục cuộc sống của ông, nhưng ông không thể nào sống vĩnh cửu được. Aśāśvatam. Những người có lẽ giàu có, uống thuốc nhiều và tiêm nhiều mũi cho kéo dài cuộc sống nhưng họ không thể nào sống mãi mãi được. Không thể nào được. Nhưng ngay khi chúng ta nhìn thấy Kṛṣṇa, chúng ta sẽ nhận được cuộc sống vĩnh cửu. Thực sự chúng ta có cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta là vĩnh cửu. ''Na hanyate hanyamāne śarīre''. ([[Vanisource:BG 2.20 (1972)|BG 2.20]]) Chúng ta không chết khi thể xác bị giết. Chúng ta chỉ nhận cơ thể khác. Nhưng đây là bệnh tật. Lúc quý vị nhận ra Kṛṣṇa, hiểu được Kṛṣṇa... Mặc dù quý vị không nhận ra Kṛṣṇa được, chỉ hiểu Kṛṣṇa, sau đó quý vị trở thành vĩnh cửu.


:janma karma ca me divyaṁ
:janma karma ca me divyaṁ
Line 36: Line 36:
:tyaktvā dehaṁ punar janma
:tyaktvā dehaṁ punar janma
:naiti...
:naiti...
:([[Vanisource:BG 4.9|BG 4.9]])
:([[Vanisource:BG 4.9 (1972)|BG 4.9]])


Kṛṣṇa đã phán. Chỉ cố gắng hiểu Kṛṣṇa. Hiểu Kṛṣṇa cũng là nhận ra Kṛṣṇa tại vị Ngài là tuyệt đối – không có gì khác. Nhưng trong thế giới vật chất chúng ta có lẽ hiểu gì nhưng không nhìn thấy được. Đây là tính hai mặt. Nhưng lúc quý vị hiểu Kṛṣṇa, nghe Kṛṣṇa, nhìn thấy Kṛṣṇa, chơi với Kṛṣṇa – đó là tất cả như nhau. Đó gọi là tuyệt đối. Chẳng có tính hai mặt.
Kṛṣṇa đã phán. Chỉ cố gắng hiểu Kṛṣṇa. Hiểu Kṛṣṇa cũng là nhận ra Kṛṣṇa tại vị Ngài là tuyệt đối – không có gì khác. Nhưng trong thế giới vật chất chúng ta có lẽ hiểu gì nhưng không nhìn thấy được. Đây là tính hai mặt. Nhưng lúc quý vị hiểu Kṛṣṇa, nghe Kṛṣṇa, nhìn thấy Kṛṣṇa, chơi với Kṛṣṇa – đó là tất cả như nhau. Đó gọi là tuyệt đối. Chẳng có tính hai mặt.


Lúc quý vị hiểu Kṛṣṇa, divyam, thiêng liêng thiên nhiên... Chỉ hiểu rằng Kṛṣṇa không phải như mình. Ngài chẳng có cơ thể vật chất, chẳng đau buồn, nhưng luôn luôn vui mừng. Nhưng quý vị tin rằng đó là thiên nhiên của Kṛṣṇa – quý vị ngay lập tức cho phép trở về nhà, trở về Đức Thượng Đế. Đây là Ý thức Kṛṣṇa, quá hay. Chính Kṛṣṇa đã giải thích cho mình và nếu chúng ta chấp nhận lời nói của Ngài, "Đúng, tất cả Kṛṣṇa phán bảo có lý." Giống như Arjuna nói rằng: "Sarvam etam ṛtaṁ manye yad vadasi keśava" ([[Vanisource:BG 10.14|BG 10.14]]) "Tôi xin tiếp thu mọi điều Ngài phán dạy như chân lý." Sarvam etam ṛtaṁ manye. "Những điều Ngài phán dạy, tôi tin. Tôi xin tiếp thu. Tôi..." Nhưng khi Kṛṣṇa phán dạy một điều, chúng ta chỉ hiểu theo một điều khác. Đó là sai lầm. Điều nây tiếp tục tới hàng triệu năm và chúng ta vẫn không sẽ hiểu được Ngài. Chúng ta phải hiểu Kṛṣṇa như Kṛṣṇa. Bởi vậy chúng ta giới thiệu Bhagavad-gītā Nguyên Nghĩa. Đó là sự hiểu biết thực sự.
Lúc quý vị hiểu Kṛṣṇa, divyam, thiêng liêng thiên nhiên... Chỉ hiểu rằng Kṛṣṇa không phải như mình. Ngài chẳng có cơ thể vật chất, chẳng đau buồn, nhưng luôn luôn vui mừng. Nhưng quý vị tin rằng đó là thiên nhiên của Kṛṣṇa – quý vị ngay lập tức cho phép trở về nhà, trở về Đức Thượng Đế. Đây là Ý thức Kṛṣṇa, quá hay. Chính Kṛṣṇa đã giải thích cho mình và nếu chúng ta chấp nhận lời nói của Ngài, "Đúng, tất cả Kṛṣṇa phán bảo có lý." Giống như Arjuna nói rằng: ''sarvam etam ṛtaṁ manye yad vadasi keśava'' ([[Vanisource:BG 10.14 (1972)|BG 10.14]]) "Tôi xin tiếp thu mọi điều Ngài phán dạy như chân lý." ''Sarvam etam ṛtaṁ manye.'' "Những điều Ngài phán dạy, tôi tin. Tôi xin tiếp thu. Tôi..." Nhưng khi Kṛṣṇa phán dạy một điều, chúng ta chỉ hiểu theo một điều khác. Đó là sai lầm. Điều nây tiếp tục tới hàng triệu năm và chúng ta vẫn không sẽ hiểu được Ngài. Chúng ta phải hiểu Kṛṣṇa như Kṛṣṇa. Bởi vậy chúng ta giới thiệu Bhagavad-gītā Nguyên Nghĩa. Đó là sự hiểu biết thực sự.
<!-- END TRANSLATED TEXT -->
<!-- END TRANSLATED TEXT -->

Latest revision as of 23:38, 1 October 2020



Lecture on SB 7.9.53 -- Vrndavana, April 8, 1976

Prahlāda Mahārāja bị trừng phạt bởi cha của nó nhiêu lần, nhưng nó không thể nào quên được Kṛṣṇa. Tại vị nó có lòng yêu thương mạnh mẽ với Kṛṣṇa. Bởi vậy Ngài đã rất là vui lòng, prīto 'ham. Prīto 'ham. Prahlāda bhadraṁ. (SB 7.9.52) Mām aprīṇata āyuṣman. (SB 7.9.53) Āyuṣman nghĩa là cầu Chúa phù hộ cho mình: "giờ đây con sống lâu hơn" hoặc "sống vĩnh cửu". Āyuṣ nghĩa là thời gian của cuộc sống. Những người nào đến gặp Kṛṣṇa... Mām upetya kaunteya duḥkhālayam aśāśvatam, nāpnuvanti. Duḥkhālayam. (BG 8.15) Miễn là chúng ta có cơ thể vật chất này và sống ở trong thế giới vật chất, đó là duḥkhālayam aśāśvatam. Đó là một thế giới vật chất nhất thời ngập tràn khổ đau. Ngay cả nếu chúng ta chấp nhận tình trạng đau khổ... Tất cả mọi người gắng sức sống. Một ông lão cũng không thích chết. Ông có lẽ đi bác sĩ và uống thuốc cho tiếp tục cuộc sống của ông, nhưng ông không thể nào sống vĩnh cửu được. Aśāśvatam. Những người có lẽ giàu có, uống thuốc nhiều và tiêm nhiều mũi cho kéo dài cuộc sống nhưng họ không thể nào sống mãi mãi được. Không thể nào được. Nhưng ngay khi chúng ta nhìn thấy Kṛṣṇa, chúng ta sẽ nhận được cuộc sống vĩnh cửu. Thực sự chúng ta có cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta là vĩnh cửu. Na hanyate hanyamāne śarīre. (BG 2.20) Chúng ta không chết khi thể xác bị giết. Chúng ta chỉ nhận cơ thể khác. Nhưng đây là bệnh tật. Lúc quý vị nhận ra Kṛṣṇa, hiểu được Kṛṣṇa... Mặc dù quý vị không nhận ra Kṛṣṇa được, chỉ hiểu Kṛṣṇa, sau đó quý vị trở thành vĩnh cửu.

janma karma ca me divyaṁ
yo jānāti tattvataḥ
tyaktvā dehaṁ punar janma
naiti...
(BG 4.9)

Kṛṣṇa đã phán. Chỉ cố gắng hiểu Kṛṣṇa. Hiểu Kṛṣṇa cũng là nhận ra Kṛṣṇa tại vị Ngài là tuyệt đối – không có gì khác. Nhưng trong thế giới vật chất chúng ta có lẽ hiểu gì nhưng không nhìn thấy được. Đây là tính hai mặt. Nhưng lúc quý vị hiểu Kṛṣṇa, nghe Kṛṣṇa, nhìn thấy Kṛṣṇa, chơi với Kṛṣṇa – đó là tất cả như nhau. Đó gọi là tuyệt đối. Chẳng có tính hai mặt.

Lúc quý vị hiểu Kṛṣṇa, divyam, thiêng liêng thiên nhiên... Chỉ hiểu rằng Kṛṣṇa không phải như mình. Ngài chẳng có cơ thể vật chất, chẳng đau buồn, nhưng luôn luôn vui mừng. Nhưng quý vị tin rằng đó là thiên nhiên của Kṛṣṇa – quý vị ngay lập tức cho phép trở về nhà, trở về Đức Thượng Đế. Đây là Ý thức Kṛṣṇa, quá hay. Chính Kṛṣṇa đã giải thích cho mình và nếu chúng ta chấp nhận lời nói của Ngài, "Đúng, tất cả Kṛṣṇa phán bảo có lý." Giống như Arjuna nói rằng: sarvam etam ṛtaṁ manye yad vadasi keśava (BG 10.14) "Tôi xin tiếp thu mọi điều Ngài phán dạy như chân lý." Sarvam etam ṛtaṁ manye. "Những điều Ngài phán dạy, tôi tin. Tôi xin tiếp thu. Tôi..." Nhưng khi Kṛṣṇa phán dạy một điều, chúng ta chỉ hiểu theo một điều khác. Đó là sai lầm. Điều nây tiếp tục tới hàng triệu năm và chúng ta vẫn không sẽ hiểu được Ngài. Chúng ta phải hiểu Kṛṣṇa như Kṛṣṇa. Bởi vậy chúng ta giới thiệu Bhagavad-gītā Nguyên Nghĩa. Đó là sự hiểu biết thực sự.